THỦ TỤC LY HÔN KHI MỘT BÊN BỎ ĐI KHÔNG RÕ NƠI CƯ TRÚ

Hiện nay, trong khi dịch Covid – 19 đang diễn ra rất phức tạp và khó kiểm soát thì những vấn đề xảy ra xung quanh mỗi cá nhân con người cũng trở nên phức tạp hơn trước đây như tình trạng ly hôn xảy ra thường xuyên hơn. Bởi do đại dịch mà nhiều người phải tạm nghỉ các công việc trước đây của mình để ở nhà phòng dịch từ đó họ có nhiều thời gian để tiếp xúc với những người thân trong gia đình hơn trước đây, một mặt vừa gia tăng tình cảm với nhau nhưng cũng có mặt làm phát sinh những mâu thuẫn từ nhỏ nhặt đến to lớn. Từ đấy, những cặp vợ chồng do phát sinh mâu thuẫn và không thể tiếp tục chung sống cũng như giải quyết được với nhau nên đã dẫn đến chấm dứt hôn nhân bằng những vụ ly hôn, thực trạng số vụ ly hôn hiện nay gia tăng rất nhiều hơn cùng thời điểm ở mọi năm trước. Ngoài những vụ ly hôn có sự đồng tình, chấp thuận của các bên thì còn có rất nhiều trường hợp đơn phương ly hôn do có nhiều nguyên nhân từ chủ quan đến khách quan tác động đến các chủ thể trong mối quan hệ. Trong đó sẽ có những vụ việc ly hôn khi một bên vợ/chồng bỏ đi không rõ nơi cư trú, từ đấy sẽ có những thủ tục khác so với những vụ ly hôn bình thường, chúng ta cùng tìm hiểu những thông tin pháp luật có liên quan đến trường hợp này sau đây.

  1. Về đối tượng
  • Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định : “ Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn:
  1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
  2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
  3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.

Theo đó, người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn là vợ/chồng, cả hai vợ chồng hoặc cha mẹ, người thân thích khác trong trường hợp luật định. Thông thường vợ/ chồng hoặc cả hai vợ chồng sẽ là người yêu cầu giải quyết ly hôn nhiều hơn, bởi họ mới chính là những chủ thể quan trọng trong mối quan hệ vợ chồng và chỉ có họ mới hiểu được mới biết được những vấn đề cả hai đang gặp phải là gì để khi tiến hành hòa giải hai bên có thể xem xét lại một cách kỹ lưỡng trước khi chính thức chấm dứt quan hệ hôn nhân của mình bằng việc ly hôn. Chỉ trong trường hợp đặc biệt như ở khoản 2 Điều 51 thì mới có chủ thể khác ngoài vợ, chồng được yêu cầu ly hôn để giải thoát cho một bên trong quan hệ hôn nhân, khi mà quan hệ hôn nhân của họ không hề được hạnh phúc mà còn đe dọa tới sức khỏe, tính mạng, tinh thần.

Đặc biệt, người chồng sẽ bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp người vợ đang có thai hoặc người vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Theo quy định của luật thì chỉ hạn chế đối với người chồng, trường hợp người vợ vẫn mong muốn được ly hôn để giải phóng bản thân khỏi mối quan hệ vợ chồng không được hạnh phúc như mong muốn hoặc giải phóng khỏi bạo lực,.. thì vẫn có thể yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

  • Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014 “Ly hôn theo yêu cầu của một bên :
  1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
  2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
  3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia”.

Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì sẽ có 2 căn cứ ly hôn đó là: thuận tình ly hôn và đơn phương ly hôn. Như vậy, trường hợp một bên vợ chồng bỏ đi thì đương nhiên sẽ áp dụng căn cứ để ly hôn là “đơn phương ly hôn”. Theo quy định tại Điều 56 khoản 2 thì một bên có thể yêu cầu ly hôn khi người còn lại do bỏ đi không rõ nơi cư trú khi người đó bị Tòa tuyên bố mất tích.

Theo quy định của Bộ luật dân sự hiện hành và Luật Hôn nhân và gia đình thì sau khi ly hôn với một người bị Tòa án tuyên bố mất tích, mà người bị tuyên bố mất tích trở về thì mối quan hệ hôn nhân giữa hai người không đương nhiên được khôi phục. Nếu bên còn lại đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân của họ vẫn được pháp luật bảo vệ. Trường hợp hai bên vẫn độc thân và có mong muốn thì có thể kết hôn lại.

  1. Thủ tục ly hôn

*Trường hợp đơn phương ly hôn, trước khi tòa án có thẩm quyền thụ lý, bị đơn bỏ khỏi nơi cư trú hoặc trường hợp bị đơn bỏ khỏi nơi cư trú không thông báo cho nguyên đơn biết

Theo quy định tại điểm a, điểm b và điểm c khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, quy định:

“a) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tổng đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

  1. b) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức theo hướng dẫn tại điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị quyết này thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ trụ sở”. Trường hợp cơ quan, tổ chức thay đổi trụ sở mà không công bố công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 79 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
  2. c) Trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.”

Ly hôn là quyền nhân thân của cá nhân trong hôn nhân và gia đình, quan hệ hôn nhân cũng không phải là quan hệ được xác lập bằng giao dịch, hợp đồng bằng văn bản như quy định tại điểm a nêu trên.

Như vậy, trường hợp Tòa án thụ lý vụ án về việc yêu cầu ly hôn mà bị đơn đã bỏ đi trước thời điểm thụ lý, sẽ thuộc trường hợp quy định tại điểm c nêu trên, lúc này Tòa án yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, trường hợp nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015, trừ trường hợp đối với vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản; các trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 5 và điểm c khoản 6 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật cũng quy định một cách chung chung và cũng không có bất cứ quy định gì liên quan đến trường hợp xử lý đối với bị đơn đã bỏ đi trước thời điểm thụ lý trong vụ án Hôn nhân và gia đình.

*Trường hợp đơn phương ly hôn, sau khi tòa án có thẩm quyền thụ lý, bị đơn bỏ khỏi nơi cư trú hoặc trường hợp bị đơn bỏ khỏi nơi cư trú không thông báo cho nguyên đơn biết

Người yêu cầu ly hôn làm đơn và gửi đến Tòa án có thẩm quyền, nộp lệ phí, án phí đầy đủ, chờ Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn.

*Trường hợp ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình:

  1. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Theo trên, đây là trường hợp một bên vợ chồng xin ly hôn đơn phương do bên kia bị Tòa án tuyên bố mất tích.

  • Thủ tục yêu cầu Tòa án tuyên một người bị mất tích quy định tại các Điều 384, 385 và Điều 388 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
  • Nguyên đơn gửi đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích đến Tòa án có thẩm quyền. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích.
  • Việc thông báo được thực hiện theo quy định pháp luật. Thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích là 04 tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo.
  • Dựa theo khoản 1 Điều 68 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định các điều kiện sau: “1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
  • Nguyên đơn gửi đơn yêu cầu giải quyết ly hôn sau khi có quyết định của Tòa án tuyên bố một người bị mất tích. (theo khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình)
  1. Tòa án có thẩm quyền giải quyết

Về nguyên tắc, khi đơn phương ly hôn, nguyên đơn phải gửi đơn yêu cầu ly hôn đến Tòa án cấp huyện nơi bị đơn cư trú để được giải quyết. Tuy nhiên trường hợp này bị đơn đã bỏ đi khỏi nơi cư trú và hiện giờ không rõ nơi cư trú ở đâu. Thì:

Trường hợp xác định được nơi cư trú cuối cùng khác với nơi cư trú của bị đơn tại thời điểm đăng ký kết hôn được ghi trong giấy chứng nhận kết hôn thì Toà án xác định địa chỉ của bị đơn là nơi cư trú cuối cùng.

Trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn là địa chỉ bị đơn đăng ký kết hôn được ghi trong Giấy chứng nhận kết hôn thì Toà án xác định địa chỉ của bị đơn được thể hiện trong Giấy chứng nhận kết hôn để giải quyết vụ án.

*Căn cứ theo khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì:

“1. Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong các trường hợp sau đây:

  1. a) Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết;”

Theo điểm a, khoản 1, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định thẩm quyền xét xử về hôn nhân (không có yếu tố nước ngoài) thuộc TAND cấp huyện, nên trường hợp này nguyên đơn nộp hồ sơ yêu cầu giải quyết việc ly hôn của mình tại TAND cấp huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc cuối cùng.

Tuy nhiên nguyên đơn phải  cung cấp chứng cứ thì nguyên đơn phải có cung cấp chứng cứ để chứng minh được nơi cư trú cuối cùng của bị đơn (theo quy định của Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự). Muốn làm được phải tới các cơ quan nhà nước và cơ quan làm việc cuối cùng để xác định được nơi cư trú cuối cùng của bị đơn.

Theo quy định của Điều 40 Bộ luật dân sự năm 2015 thì:

“1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống.

  1. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó đang sinh sống”.

Nếu tiến hành theo thủ tục này thì nguyên đơn phải mất rất nhiều thời gian và công sức cho việc cung cấp chứng cứ để chứng minh. Bên cạnh đó, còn những khó khăn phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án như: cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng.

  1. Hồ sơ ly hôn
  • Đơn xin ly hôn đơn phương được ban hành theo mẫu
  • Đăng ký kết hôn (bản chính); nếu không có thì có thể xin cấp bản sao…
  • Bản sao có chứng thực Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân… của vợ và chồng; sổ hộ khẩu của gia đình;
  • Bản sao chứng thực giấy khai sinh của con nếu có con chung;
  • Nếu có tài sản chung và yêu cầu phân chia tài sản chung khi ly hôn thì chuẩn bị giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản chung này…
  1. Án phí, lệ phí

Theo bảng danh mục lệ phí Tòa án quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 thì lệ phí sơ thẩm giải quyết yêu cầu về dân sự, cụ thể yêu cầu tuyên bố một người mất tích là 300.000 đồng.

Án phí, lệ phí khi giải quyết ly hôn được quy định cụ thể tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Án phí cho một vụ ly hôn hiện nay là 300.000 đồng nếu không tranh chấp về tài sản. Đối với những vụ việc có tranh chấp về tài sản thì mức án phí được xác định theo giá ngạch được quy định cụ thể tại các điều khoản riêng.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Gọi ngay