Hiện nay, giới trẻ Việt Nam đang xuất hiện trào lưu, tư tưởng “sống thử” trước khi kết hôn để tìm hiểu nhau, một số lại cho rằng việc đăng ký kết hôn là không cần thiết. Trong xã hội hiện đại này, việc chung sống như vợ chồng đang ngày càng phổ biến. Vậy Chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn có vi phạm pháp luật không?
Thế nào là chung sống như vợ chồng?
Có thể hiểu, sống thử là việc nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn cũng không tổ chức đám cưới. Trong khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có định nghĩa về chung sống như vợ chồng như sau:
Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng
Trên thực tế, tình trạng nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng tồn tại dưới nhiều dạng thức như: sống thử trước khi kết hôn, sinh hoạt chung như một gia đình, sống chung và có con chung nhưng không đăng ký kết hôn… Việc này được chứng minh bằng việc họ có đời sống sinh hoạt chung; có tài sản chung; có con chung với nhau và được mọi người xung quanh thừa nhận là vợ chồng.
Không đăng ký kết hôn có vi phạm pháp luật không?
Theo Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Hiện nay, việc kết hôn là do tự nguyện của hai bên chứ không có quy định là sống chung thì phải đăng ký kết hôn. Do đó, không có quy định xử phạt về việc không đăng ký kết hôn.
Ngoài ra, căn cứ vào Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì pháp luật không cấm việc chung sống như vợ chồng nếu không vi phạm về độ tuổi kết hôn và không thuộc các hành vi cấm như: đã kết hôn nhưng chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chung sống như vợ chồng với người đã kết hôn..
Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;…
Như vậy, trường hợp hai bên nam nữ không tồn tại quan hệ hôn nhân, không đăng ký kết hôn mà sống chung như vợ chồng thì pháp luật không cấm và sẽ không vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, việc kết hôn là tự nguyện chứ không có quy định sống chung thì phải đăng ký kết hôn. Chỉ khi trường hợp rơi vào các hành vi cấm như trên thì sẽ vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng sẽ không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Bởi pháp luật chỉ thừa nhân là vợ chồng khi hai bên nam nữ đã tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền.
Xử lý trường hợp chung sống như vợ chồng mà bị pháp luật cấm
Người đang có vợ hoặc có chồng mà sống chung với người khác thì tùy vào mức độ, hành vi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ có thể bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự.
Xử phạt hành chính
Căn cứ khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP, mức phạt tiền trong trường hợp sống thử khi đang có vợ hoặc đang có chồng là:
Phạt tiền từ 03 – 05 triệu đồng
– Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
– Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
– Chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
Phạt tiền từ 10 – 20 triệu đồng
– Chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
– Chung sống như vợ chồng giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi.
Ngoài ra, trong một số trường hợp phải đăng ký tạm trú khi sống thử mà nam, nữ không thực hiện thì sẽ bị phạt tiền từ 100.000 – 300.000 đồng nếu không thực hiện đúng quy định về đăng ký tạm trú (theo khoản 1 Điều 8 Nghị định 167/2013/NĐ-CP).
Chịu trách nhiệm hình sự
Người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ/chồng nhưng chung sống như chồng vợ với người mình biết rõ đang có chồng/vợ thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015:
Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm
– Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Phạt tù từ 06 tháng – 03 năm
– Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
– Đã có quyết định của Tòa án buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Trên đây là những thông tin trả lời cho câu hỏi: Chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn có vi phạm pháp luật không? Nếu có bất kì thắc mắc nào hãy liên hệ hotline: 0902199090- 0982068560! Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ!