Hiện nay, để tránh tình trạng xảy ra tranh chấp di sản thừa kế, gây mâu thuẫn cho các thành viên – những người đồng thừa kế thì những người để lại di sản đã có phương án là lập di chúc, phân chia những di sản thừa kế cho những người nhận di sản và cùng với đó cũng có một số điều kiện kèm theo hoặc một số nguyện vọng khác của người lập di chúc. Điển hình như tình huống sau: “Bố mẹ mất có di chúc để lại di sản là bất động sản cho con, nhưng trong di chúc có ghi chú là không được bán, chuyển nhượng cho người khác. Vậy người con khi nhận di sản có được bán, chuyển nhượng cho người khác hay không? ”. Pháp luật thừa nhận và bảo hộ quyền lập di chúc của người để lại tài sản. Tuy nhiên, nội dung di chúc phải tuân thủ các điều kiện pháp luật thì mới có giá trị pháp lý. Do vậy, di chúc được lập với nội dung để lại tài sản thừa kế là nhà đất với điều kiện được ở những không được bán liệu có hợp pháp? Để có thể trả lời được các câu hỏi trên, chúng ta cùng tìm hiểu ngay sau đây:
Thứ nhất, quy định của pháp luật về di chúc.
Theo Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc được định nghĩa như sau: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.”
Với quy định này, di chúc phải có các yếu tố sau: Thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là của bất cứ chủ thể nào khác; Mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản là di sản của mình cho người khác; Chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết.
Cùng với đó di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó di chúc phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Cụ thể di chúc phải có điều kiện tại khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015.
Vậy nên, việc lập di chúc để phân chia tài sản và đưa ra các yêu cầu, điều kiện, nguyện vọng chính đáng của người để lại di sản là hoàn toàn phù hợp. Những người nhận di sản nên chấp thuận và thực hiện đúng theo di chúc đã được để lại một cách phù hợp và đúng theo pháp luật.
Thứ hai, điều kiện của di chúc về chỉ được ở mà không được phép bán. Có thể chia ra làm 02 trường hợp:
Trường hợp 1: Dùng căn nhà, mảnh đất di sản để dùng vào việc thờ cúng.
Được quy định tại khoản 3, điều 626 Bộ luật Dân sự 2015 thì quyền của người để lại di sản được “dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng”. Như vậy, pháp luật cho phép một người dùng phần tài sản của mình làm di sản thờ cúng.
Khoản 1 Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng”.
Như vậy, để ngăn chặn việc chuyển nhượng, bán di sản, trong di chúc cần nêu rõ việc dùng di sản này để thờ cúng và giao cho người thừa kế quản lý. Theo đó, căn nhà / mảnh đất là di sản dùng vào việc thờ cúng này không thể phân chia, người thừa kế được chỉ định quản lý căn nhà cũng không có quyền định đoạt. Người thừa kế không thể thực hiện các quyền hạn như là chủ sở hữu của căn nhà / mảnh đất này. Nếu không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì căn nhà đó sẽ cho người khác quản lý để thờ cúng. Đây là một cách để ràng buộc người thừa kế không được chuyển nhượng tài sản. Và việc đưa ra điều kiện này trong bản di chúc là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
Trường hợp 2: Viết nguyện vọng không được chuyển nhượng căn nhà / mảnh đất của di sản vào di chúc.
Theo khoản 4 Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015, người lập di chúc có quyền “giao nghĩa vụ cho người thừa kế”. Như vậy, nghĩa vụ của người thừa kế được giao trong trường hợp này là không được chuyển nhượng căn nhà / mảnh đất di sản.
Về cách này thì sẽ rất khó để kiểm soát việc người thừa kế có thực hiện theo đúng ý nguyện của người để lại di sản. Vì không có một yếu tố pháp lý nào ràng buộc. Bởi theo quy định của pháp luật, người thừa kế có quyền làm thủ tục để đăng ký sang tên quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở mà họ được nhận theo di chúc. Khi đã trở thành chủ sở hữu căn nhà, họ sẽ có toàn quyền của sở hữu theo quy định của pháp luật, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Được quy định tại điều 158 Bộ luật dân sự 2015 “ Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”. Thế nên, việc thực hiện nguyện vọng này là không bắt buộc, tùy vào ý chí của chủ thể nhận di sản, việc thực hiện hay không pháp luật không hề có bất cứ quy định nào
Do đó, để đảm bảo việc mua bán căn nhà là di sản không được diễn ra, trong di chúc cần nêu rõ nhà đất để lại sẽ được dùng vào việc thờ cúng và giao nhà đất này cho người thừa kế quản lý. Và nếu đây chỉ là nguyện vọng của người để lại di sản thì người thừa kế có thể bán, chuyển nhượng cho người khác khi họ đã trở thành chủ sở hữu hợp pháp.